(apag.edu.vn) - Nằm trong chương trình Diễn đàn Quản trị công quốc tế thường niên 2025, sáng 24/10/2025, các đại biểu tham dự Diễn đàn đã cùng nhau thảo luận Phiên 1 với chủ đề “Đổi mới sáng tạo - Động lực cho phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới”. PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến - GS. Vũ Minh Khương - PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải đồng chỉ trì Phiên 1; và Phiên 2: Đối thoại chính sách với chủ đề: “Đổi mới sáng tạo trong khu vực công – Từ tầm nhìn đến hành động chính sách”.
PHIÊN 1: Đổi mới sáng tạo - Động lực cho phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới
GS. Vũ Minh Khương - Trường Chính sách công Lý Quang Diệu trình bày tham luận
Tham luận tại Phiên 1, GS. Vũ Minh Khương - Trường Chính sách công Lý Quang Diệu chia sẻ về “Đổi mới sáng tạo trong quản trị công - Bước đột phá chiến lược để Việt Nam vươn lên quỹ đạo tăng trưởng cao, bền vững”.
GS. Vũ Minh Khương nhấn mạnh vai trò then chốt của thể chế trong phát triển quốc gia, quyết định việc huy động và phân bổ nguồn lực theo hướng tạo ra hay làm xói mòn giá trị. Ông cho rằng, một nhà nước phát triển cần dựa trên sáu trụ cột: chiến lược trung ương hiệu quả; hành chính chuyên nghiệp; chính sách công nghiệp định hướng kết quả; đầu tư dài hạn cho giáo dục, khoa học - công nghệ; hạ tầng - tài chính hiện đại; và hội nhập quốc tế dựa trên niềm tin xã hội.
Phân tích bối cảnh toàn cầu, GS. Vũ Minh Khương nêu 08 xu hướng định hình thế kỷ XXI như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, toàn cầu hóa, đô thị hóa và cách mạng AI, gọi đây là “Kỷ nguyên 5.0” - thời kỳ trí tuệ nhân tạo trở thành động lực của nền văn minh mới. Từ thực tiễn Việt Nam, ông đề xuất năm ưu tiên cải cách thể chế với trọng tâm kiến tạo nhà nước phát triển, quản trị quốc gia và đổi mới sáng tạo làm động lực tăng trưởng.
GS. Vũ Minh Khương giới thiệu Khung đột phá 5 trụ cột cho Đổi Mới II gồm: tầm nhìn 2045, hội nhập toàn cầu, thể chế xuất sắc, hạ tầng bền vững và nguồn nhân lực đẳng cấp. Cùng với đó là 10 sáng kiến cải cách thể chế như thành lập Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, thể chế hóa cơ chế thử nghiệm chính sách, hiện đại hóa pháp luật bằng AI, xây dựng nền hành chính tinh gọn và thúc đẩy chuyển đổi số trong khu vực công.
GS. Vũ Minh Khương khẳng định: đổi mới thể chế và quản trị công là bước đột phá chiến lược để Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, xây dựng nền quản trị hiện đại, minh bạch và nhân văn, hướng tới Việt Nam thịnh vượng - đổi mới - bền vững vào năm 2045.
Bà Diana Torres - Chuyên gia trưởng về Quản trị, UNDP khu vực Bangkok, Thái Lan trình bày tham luận.
Bà Diana Torres - Chuyên gia trưởng về Quản trị, UNDP khu vực Bangkok, Thái Lan trình bày tham luận “Năng lực động trong chuyển đổi khu vực công: Triển vọng khu vực và gợi ý cho Việt Nam”. Bà nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết xây dựng nền quản trị năng động, dự báo, thích ứng và linh hoạt (Anticipatory - Adaptive - Agile Governance) giúp các quốc gia vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội trong bối cảnh phát triển nhanh, phức tạp của thế kỷ XXI.
Theo bà Torres, khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang tụt hậu trong tiến trình thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs), chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu, đại dịch, khủng hoảng dân số và khoảng cách công nghệ. Trong bối cảnh đó, năng lực quản trị năng động - gồm khả năng dự báo, điều chỉnh chính sách và ra quyết định linh hoạt - trở thành yếu tố then chốt để tạo ra giá trị công và thúc đẩy phát triển bền vững.
Đối với Việt Nam, bà đánh giá nước ta có bước tiến về phát triển con người và quản trị nhưng cần đầu tư mạnh hơn vào ba năng lực: dự báo, thích ứng và linh hoạt, nhằm đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. UNDP khuyến nghị Việt Nam ưu tiên bốn hướng: thúc đẩy tăng trưởng gắn công nghệ cao; đẩy nhanh chuyển đổi xanh - chuyển đổi số; cải thiện phối hợp trung ương - địa phương; và ứng phó với đô thị hóa nhanh. Bà Torres khẳng định, xây dựng chính phủ năng động và linh hoạt là điều kiện tiên quyết để đến năm 2025, Việt Nam sẽ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững.
PGS.TS. Hoàng Hữu Hạnh - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ trình bày tham luận.
Tại Diễn đàn, PGS.TS. Hoàng Hữu Hạnh trình bày tham luận về vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong phát triển quốc gia. Ông điểm lại hành trình tăng trưởng ấn tượng của Việt Nam từ sau Đổi mới, với GDP bình quân đầu người tăng mạnh, nhờ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chính sách phát triển khoa học - công nghệ hiệu quả. Nghị quyết 57-NQ/TW được nhấn mạnh là dấu mốc chiến lược, xác định trí tuệ nhân tạo (AI) là công nghệ mũi nhọn, đóng vai trò là động lực tăng trưởng mới. Việt Nam hướng tới xây dựng Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số toàn diện vào năm 2030. Chiến lược quốc gia về AI đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực với việc ứng dụng AI mạnh mẽ trong sản xuất, nông nghiệp, y tế và giáo dục. Dù còn thách thức về nhân lực và hạ tầng, Việt Nam có nhiều lợi thế về thị trường, dân số trẻ và hợp tác quốc tế. Ông khẳng định Việt Nam cam kết phát triển AI có trách nhiệm, lấy con người làm trung tâm, hướng tới phát triển bền vững và hội nhập toàn cầu.
Ông Wu Wei Neng - Giám đốc Điều hành Viện Quản trị Chandler trình bày tham luận
Bài tham luận của ông Wu Wei Neng, Giám đốc Điều hành Viện Quản trị Chandler (CIG, Singapore) tập trung vào chủ đề “Chiến lược quốc gia nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững - Kinh nghiệm của Singapore”. Ông khẳng định đổi mới sáng tạo là trụ cột của một chính phủ hiệu suất cao, giúp tối ưu nguồn lực, nâng cao hiệu quả và duy trì phát triển bền vững. Theo Chỉ số Chính phủ Tốt Chandler (CGGI), năng lực hoạch định, điều phối và thực thi chính sách hiệu quả là nền tảng tạo nên chính phủ tốt.
Ông nhấn mạnh, đổi mới sáng tạo là điều kiện tiên quyết để chính phủ hoạt động hiệu quả trong hoạch định chính sách, ứng phó khủng hoảng và cải cách dài hạn. Ba yếu tố quyết định thành công gồm: lãnh đạo truyền cảm hứng, thử nghiệm - học hỏi trước khi mở rộng quy mô, và xây dựng văn hóa đổi mới trong khu vực công.
Ông Wu Wei Neng giới thiệu các mô hình tiêu biểu như Impact Canada, MindLab (Đan Mạch) và Rwanda - những ví dụ cho việc thể chế hóa đổi mới trong quản trị công. Đặc biệt, kinh nghiệm Singapore được xem là điển hình khi coi đổi mới sáng tạo là chiến lược quốc gia trong Kế hoạch RIE2025, đầu tư 1% GDP vào nghiên cứu và công nghệ, thúc đẩy hợp tác giữa nhà nước, doanh nghiệp và học giới. Chính phủ khuyến khích công chức đề xuất sáng kiến, xây dựng văn hóa học hỏi, và đào tạo tư duy sáng tạo từ sớm. Ông khẳng định, đổi mới sáng tạo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống công quyền, giúp chính phủ thích ứng, học hỏi liên tục và củng cố niềm tin của người dân.
PHIÊN 2: ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
Phiên 2, đối thoại chính sách với chủ đề: “Đổi mới sáng tạo trong khu vực công - Từ tầm nhìn đến hành động chính sách”. Các diễn giả tham gia gồm: ông Wu Wei Neng, Giám đốc Điều hành Viện Quản trị Chandler; GS. Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore; Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn; PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến - Giám đốc Học viện Hành chính và Quản trị công, Chủ tịch Hội đồng điều hành EROPA; PGS.TS. Trần Quang Diệu, Giám đốc Trung tâm Công nghệ và Chuyển đổi số, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; PGS.TS. Hoàng Hữu Hạnh, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Khoa học và Công nghệ; ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp - Bộ Khoa học và Công nghệ
PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải - Trưởng khoa, Khoa Hành chính học, Học viện Hành chính và Quản trị công điều phối phiên thảo luận.
Các diễn giả tham gia đối thoại chính sách với chủ đề: “Đổi mới sáng tạo trong khu vực công - Từ tầm nhìn đến hành động chính sách”.
Tại phiên đối thoại, các diễn giả đã tập trung thảo luận các vấn đề:
Một là, đổi mới sáng tạo được xác định là động lực then chốt giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả quản trị và chất lượng phục vụ người dân. Trong quản trị quốc gia, đổi mới sáng tạo không chỉ là ứng dụng công nghệ mà còn là đổi mới tư duy, mô hình điều hành và văn hóa công vụ, giúp hệ thống quản lý linh hoạt, minh bạch và thích ứng nhanh với thay đổi xã hội. Việc ứng dụng sáng tạo trong chuyển đổi số, dữ liệu mở và quản trị thông minh góp phần tăng hiệu quả, giảm chi phí, rút ngắn quy trình ra quyết định, đồng thời tạo môi trường khuyến khích học hỏi, dám nghĩ - dám làm, phát huy trí tuệ của cán bộ và người dân. Đổi mới sáng tạo cần được tiếp cận ở ba cấp độ: (1) Tư duy và văn hóa đổi mới - chuyển từ tư duy “quản lý” sang “kiến tạo và phục vụ”, khuyến khích thử nghiệm, chấp nhận rủi ro có kiểm soát, lấy kết quả thực tiễn làm thước đo. (2) Thể chế và chính sách - hoàn thiện khung pháp lý cho đổi mới sáng tạo, đặc biệt trong dữ liệu, công nghệ, kinh tế số và AI; thiết lập cơ chế tài chính và đối tác công - tư thúc đẩy sáng tạo trong khu vực công. (3) Năng lực và hạ tầng đổi mới - phát triển nhân tài đổi mới sáng tạo, xây dựng hệ sinh thái gắn kết Nhà nước - doanh nghiệp - viện trường - người dân, đẩy mạnh chuyển đổi số trong toàn bộ hệ thống quản trị. Trong kỷ nguyên mới, công chức không chỉ là người thực thi chính sách mà là nhà kiến tạo giá trị công, với năng lực cốt lõi là tư duy đổi mới, thích ứng sáng tạo trong môi trường làm việc tin cậy, cởi mở và hướng tới kết quả.
Hai là, nhận thức về đổi mới sáng tạo trong khu vực công ở Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh yêu cầu “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”; đồng thời thúc đẩy tinh thần sáng tạo, cải tiến trong thực thi công vụ. Một số cơ quan, địa phương đã có mô hình, sáng kiến cải cách hành chính, chuyển đổi số, quản lý thông minh mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần thay đổi cách thức quản trị và phục vụ người dân. Tuy nhiên, vẫn cần đột phá về thể chế, cơ chế khuyến khích và văn hóa công vụ để tinh thần sáng tạo thật sự trở thành giá trị cốt lõi của đội ngũ cán bộ, công chức trong kỷ nguyên quản trị hiện đại.
Ba là, việc đo lường và đánh giá hiệu quả đổi mới sáng tạo trong khu vực công cần bắt đầu từ xác định đúng đối tượng và phạm vi đánh giá, trong đó người đứng đầu cơ quan hành chính đóng vai trò then chốt. Hiệu quả đổi mới sáng tạo không chỉ thể hiện qua các chỉ số định lượng như KPI, mà quan trọng hơn là sự thay đổi trong tư duy lãnh đạo, cách thức quản trị và chất lượng phục vụ người dân. Đổi mới sáng tạo là quá trình học hỏi, thử nghiệm và tạo ra giá trị công mới, nên cần được đánh giá trong môi trường cởi mở, khuyến khích sáng kiến và chấp nhận rủi ro có kiểm soát. Ông cũng nhấn mạnh, việc đưa tiêu chí đổi mới sáng tạo vào hệ thống đánh giá cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý, là hướng đi cần thiết, góp phần hình thành văn hóa đổi mới trong nền công vụ, khơi dậy tinh thần dám nghĩ, dám làm và nâng cao hiệu quả quản trị công.
Bốn là, dữ liệu là nền tảng, thể chế là động lực và công dân số là trung tâm của tiến trình chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong khu vực công, hướng tới một nền quản trị quốc gia thông minh, hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn đối mặt với nhiều điểm nghẽn, như: thể chế và hành lang pháp lý chưa đồng bộ, dữ liệu còn phân tán, thiếu cơ chế chia sẻ và bảo mật, nguồn nhân lực số còn hạn chế, và tư duy quản trị truyền thống còn phổ biến. Để tiến nhanh hơn, cần ưu tiên hoàn thiện khung pháp lý về dữ liệu quốc gia, đổi mới cơ chế đầu tư công cho chuyển đổi số và xây dựng cơ chế trách nhiệm dữ liệu rõ ràng ở mọi cấp quản lý; nâng cao năng lực và niềm tin số cho người dân, thông qua việc phát triển kỹ năng số toàn dân, xây dựng hạ tầng dữ liệu công dân thống nhất - an toàn - thân thiện, và bảo đảm quyền riêng tư, an toàn thông tin.
Năm là, việc thiết lập các cơ sở thử nghiệm chính sách (policy sandbox) trong khu vực công là rất cần thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là công cụ quan trọng giúp thử nghiệm ý tưởng, mô hình và cơ chế mới trong phạm vi kiểm soát, từ đó rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng, giảm thiểu rủi ro thể chế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong quản trị công. Việt Nam có thể bắt đầu thí điểm sandbox ở các lĩnh vực có tốc độ thay đổi nhanh và ảnh hưởng lớn, như: chuyển đổi số, dữ liệu mở, đô thị thông minh, tài chính số và dịch vụ công trực tuyến. Để bảo đảm hiệu quả, cần xây dựng khung pháp lý linh hoạt nhưng chặt chẽ, xác định rõ phạm vi, thời gian, đối tượng và cơ chế giám sát, đồng thời có cơ chế miễn trừ rủi ro có kiểm soát nhằm khuyến khích sáng tạo nhưng vẫn bảo đảm an toàn thể chế.
Sáu là, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ số, đóng vai trò động lực quan trọng trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo công, cung cấp công nghệ, năng lực triển khai và nguồn lực tài chính. Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ số khu vực và thế giới, Việt Nam cần khuyến khích đầu tư và R&D, thúc đẩy cơ chế đối tác công - tư, bảo vệ sở hữu trí tuệ và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Về hợp tác Nhà nước - doanh nghiệp - viện nghiên cứu, mô hình hiệu quả là trung tâm đổi mới sáng tạo mở, chương trình nghiên cứu liên ngành và cơ chế đồng sáng tạo, nơi các bên cùng phát triển giải pháp và thử nghiệm chính sách. Chính sách ưu tiên nên là cơ chế tài chính hỗ trợ dự án chung, khung pháp lý linh hoạt cho thử nghiệm sáng tạo và cơ chế đánh giá, nhân rộng mô hình thành công, nhằm biến hợp tác này thành động lực bền vững cho đổi mới sáng tạo công tại Việt Nam.
Bảy là, Việt Nam cần xây dựng chiến lược đổi mới sáng tạo trong khu vực công cấp quốc gia để định hướng hành động, tạo cơ chế phối hợp và thúc đẩy cải cách. Các trụ cột ưu tiên bao gồm: thể chế linh hoạt và chính sách khuyến khích đổi mới, chuyển đổi số và quản trị dữ liệu, phát triển năng lực con người và văn hóa sáng tạo, cùng hợp tác liên ngành và quốc tế.
Buổi chiều, Diễn đàn tiếp tục làm việc với hai phiên:
Phiên 3: Gắn kết giữa cơ sở đào tạo và chính quyền địa phương trong đổi mới sáng tạo.
Phiên 4: Tọa đàm bàn tròn - Xây dựng năng lực đổi mới sáng tạo: Vai trò của cơ sở đào tạo và chính quyền địa phương trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.